Nước ta là một quốc gia có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc. Nếu chỉ tính những con sông có chiều dài trên 10 cây số thì cả nước có khoảng hơn 2000 con sông. Đây đáng lẽ ra là điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều ngành kinh tế, song việc khai thác bừa bãi, không có quy hoạch, không vì mục tiêu phát triển bền vững mà hiện nhiều con sông đang bị ô nhiễm trầm trọng, thậm chí còn đang ở mức báo động. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất kinh doanh của ngời dân. Nguyên nhân được cho là tác nhân chính dẫn đến tình trạng hiện nay là do tình trạng nước thải chưa qua xử lý được xả trực tiếp xuống các sông hồ bao gồm cả rác thải, nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, nước thải từ các làng nghề, khu công nghiệp. Tình trạng ô nhiễm còn trầm trọng hơn ở các khu vực khu đô thị. Những con sông ô nhiễm và đang có nguy cơ trở thành những con sông chết hiện nay phải nhắc đến như sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tích,…
Công nghệ Nano Bioreactor là một trong những giải pháp công nghệ cao xử lý ô nhiễm môi trường nước hiện nay. Hiện công nghệ này đang được ứng dụng thí điểm để xử lý một đoạn sông Tô Lịch đang bị ô nhiễm và một góc Hồ Tây. Những kết quả thu được từ chương trình thí điểm này rất khả quan, nước thu được là nước sạch và có thể tái sử dụng. Hơn nữa công nghệ Nano Bioreactor tạo ra nguồn oxy vô tận và là giải pháp công nghệ giúp hồi sinh các dòng sông đang có nguy cơ trở thành sông chết ở nước ta.
Ngay cả như tình trạng “cá chết hàng loạt” ở Hồ Tây đã được các cơ quan quản lý công bố nguyên nhân là do “thiếu oxy”. Và giải pháp được đưa ra là các máy sục oxy được lắp đặt để cung cấp oxy cho cá. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tạm thời và tốn kém chi phí, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, môi trường nước thiếu oxy là bản thân trong môi trường nước đó bị ô nhiễm nên các sinh vật trong môi trường đó không có đủ điều kiện cơ bản để sinh sống và phát triển,
Thứ hai, về phương pháp sục khí oxy là phương pháp không hiệu quả do trong không khí chỉ có 20% là khí oxy. Việc sục khí xuống dưới lòng hồ chỉ tạp ra các bọt khí có kích thước rất lớn, bọt khí to và nhẹ tiếp tục lại bay lên mặt nước vì vậy lượng oxy cung cấp cho môi trường sinh vật trong lòng sông lòng hồ là vô cùng thấp.
Trong khi đó, công nghệ sục khí nano của Nhật Bản hiện đang áp dụng là công nghệ phun ra các bọt khí kích thước micro và nano rất nhỏ. Bọt khí kích thước micro thì hòa tan vào tầng trung của nước sông, hồ và phân giải các chất bẩn gây ô nhiễm. Còn các bọt khí kích thước nano thì đi xuyên xuống tầng bùn đáy sông hồ và phân giải lớp bùn đáy. Do vậy, không chỉ hòa tan được một lượng lớn oxy vào trong nước từ đó tăng được lượng oxy hòa tan DO vào trong nước lên rất cao, tạo môi trường sống cho cá mà Công nghệ sục khí nano của Nhật Bản còn phân giải các chất bẩn, bùn trong nước khác hẳn với công nghệ sục khí “tạo cảnh quan” như đang áp dụng tại các hồ ở một số nơi như hiện nay.
Có thể thấy sự khác biệt về tính hiệu quả mà công nghệ sục khí nano đem lại. Đây là một trong những giải pháp mang lại hiệu quả bền vững và có thể xử lý dứt điểm tình trạng ô nhiễm, tái sinh được các dòng sông có nguy cơ chết hiện nay.
Công nghệ Nano Bioreactor là một trong những giải pháp công nghệ cao xử lý ô nhiễm môi trường nước hiện nay. Hiện công nghệ này đang được ứng dụng thí điểm để xử lý một đoạn sông Tô Lịch đang bị ô nhiễm và một góc Hồ Tây. Những kết quả thu được từ chương trình thí điểm này rất khả quan, nước thu được là nước sạch và có thể tái sử dụng. Hơn nữa công nghệ Nano Bioreactor tạo ra nguồn oxy vô tận và là giải pháp công nghệ giúp hồi sinh các dòng sông đang có nguy cơ trở thành sông chết ở nước ta.
Ngay cả như tình trạng “cá chết hàng loạt” ở Hồ Tây đã được các cơ quan quản lý công bố nguyên nhân là do “thiếu oxy”. Và giải pháp được đưa ra là các máy sục oxy được lắp đặt để cung cấp oxy cho cá. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tạm thời và tốn kém chi phí, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, môi trường nước thiếu oxy là bản thân trong môi trường nước đó bị ô nhiễm nên các sinh vật trong môi trường đó không có đủ điều kiện cơ bản để sinh sống và phát triển,
Thứ hai, về phương pháp sục khí oxy là phương pháp không hiệu quả do trong không khí chỉ có 20% là khí oxy. Việc sục khí xuống dưới lòng hồ chỉ tạp ra các bọt khí có kích thước rất lớn, bọt khí to và nhẹ tiếp tục lại bay lên mặt nước vì vậy lượng oxy cung cấp cho môi trường sinh vật trong lòng sông lòng hồ là vô cùng thấp.
Trong khi đó, công nghệ sục khí nano của Nhật Bản hiện đang áp dụng là công nghệ phun ra các bọt khí kích thước micro và nano rất nhỏ. Bọt khí kích thước micro thì hòa tan vào tầng trung của nước sông, hồ và phân giải các chất bẩn gây ô nhiễm. Còn các bọt khí kích thước nano thì đi xuyên xuống tầng bùn đáy sông hồ và phân giải lớp bùn đáy. Do vậy, không chỉ hòa tan được một lượng lớn oxy vào trong nước từ đó tăng được lượng oxy hòa tan DO vào trong nước lên rất cao, tạo môi trường sống cho cá mà Công nghệ sục khí nano của Nhật Bản còn phân giải các chất bẩn, bùn trong nước khác hẳn với công nghệ sục khí “tạo cảnh quan” như đang áp dụng tại các hồ ở một số nơi như hiện nay.
Có thể thấy sự khác biệt về tính hiệu quả mà công nghệ sục khí nano đem lại. Đây là một trong những giải pháp mang lại hiệu quả bền vững và có thể xử lý dứt điểm tình trạng ô nhiễm, tái sinh được các dòng sông có nguy cơ chết hiện nay.